NỘI KHOA - HUYẾT HỌC: Xét nghiệm UIBC, TIBC, Fe

Đăng vào ngày 2021-08-19 06:49:14 mục Tin tức 5500 lượt xem

Đường dẫn tài liệu:

Lâm sàng huyết học

Xét nghiệm TIBC, UIBC, Transferrin

Total Iron Binding Capacity; Unsaturated Iron Binding Capacity; Transferrin; Transferrin Saturation

 

Transferrin là protein chính trong máu liên kết với sắt và vận chuyển sắt đi khắp cơ thể. Số lượng transferrin có sẵn để gắn kết và vận chuyển sắt được phản ánh trong các phép đo tổng công suất (khả năng) gắn kết sắt (TIBC), khả năng liên kết sắt không bão hòa (UIBC) hoặc transferrin bảo hòa.

 

Thông thường, sắt được hấp thụ từ thức ăn và vận chuyển khắp cơ thể bởi transferrin, transferrin được sản xuất bởi gan. Khoảng 70% sắt được vận chuyển đến tủy xương và kết hợp với hemoglobin trong các tế bào máu đỏ. Phần còn lại được lưu trữ trong các mô như ferritin hoặc hemosiderin. Số lượng transferrin trong máu phụ thuộc vào chức năng gan và tình trạng dinh dưỡng của một người. Trong điều kiện bình thường, khoảng 1/3 transferin bão hòa với sắt. Điều này có nghĩa rằng khoảng 2/3 số lượng của sắt được lưu trữ trong các tổ chức mô, cơ quan.

 

Các thử nghiệm transferrin, TIBC, UIBC và transferrin bão hòa chủ yếu đo lường những dạng tương tự. Chúng đánh giá khả năng gắn kết và vận chuyển sắt trong máu và là một sự phản ánh của các kho dự trữ sắt.

 

TIBC là phép đo tổng lượng sắt có khả năng gắn kết với các protein trong máu.Tuy nhiên transferrin là protein chính gắn kết sắt, các xét nghiệm TIBC là một phép đo gián tiếp transferrin, có giá trị tốt.

 

Các thử nghiệm UIBC xác định khả năng dự trữ của transferrin, tức là một phần của transferrin chưa được gắn kết (chưa được bão hòa) với sắt. UIBC có thể được đo trực tiếp hoặc tính toán như: TIBC – sắt = UIBC.

 

Sắt huyết thanh đo tổng số lượng sắt trong máu, gần như tất cả sắt trong huyết thanh đều gắn kết với transferrin. Đo sắt huyết thanh là cần thiết để tính toán hoặc TIBC hoặc UIBC.

 

Transferrin bão hòa là một tính toán (xem câu hỏi 2) bằng cách sử dụng kết quả xét nghiệm sắt và các kết quả TIBC hoặc UIBC, tỷ lệ phần trăm đại diện cho transferrin bão hòa (gắn kết) với sắt.

 

Xét nghiệm được sử dụng như thế nào?

 

Tổng khả năng gắn kết sắt (TIBC) được sử dụng thường xuyên nhất cùng với một xét nghiệm sắt huyết thanh để đánh giá những người bị nghi ngờ có thiếu sắt hoặc quá tải sắt. Hai xét nghiệm này được sử dụng để tính toán độ bão hòa transferrin, một chỉ số đánh giá tình trạng sắt hữu ích hơn sắt huyết thanh hoặc TIBC được đánh giá riêng rẽ. Ở những người khỏe mạnh, khoảng 20-40% transferrin được sử dụng để vận chuyển sắt.

 

Thiếu sắt, mức độ sắt thấp, nhưng TIBC được tăng lên, do đó transferrin bão hòa trở nên rất thấp. Trong trạng thái quá tải sắt, chẳng hạn như bệnh nhiễm sắc tố sắt mô, mức độ sắt sẽ cao và TIBC sẽ thấp hoặc bình thường, gây ra bão hòa transferrin tăng. UIBC có thể được chỉ định thay thế cho TIBC.

 

Thói quen thường dùng xét nghiệm transferrin (thay vì TIBC hoặc UIBC) để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân hoặc chức năng gan. Bởi vì nó được sản xuất trong gan, transferrin sẽ thấp ở những bệnh nhân bị bệnh gan. Mức độ Transferrin cũng giảm khi không có đủ protein trong chế độ ăn uống, do đó, thử nghiệm này có thể được sử dụng để giám sát dinh dưỡng.

 

Chỉ định

 

Nghi ngờ thiếu máu thiếu sắt

 

Nghi ngờ tình trạng quá tải sắt

 

Sắt và TIBC cũng được chỉ định trong các trường hợp nghi ngờ ngộ độc sắt, phổ biến nhất là ở trẻ em do vô tình dùng thuốc quá liều như bổ sung vitamin có chứa sắt.

Một xét nghiệm transferrin có thể được thử nghiệm cùng với các xét nghiệm khác như prealbumin khi bác sĩ muốn đánh giá hoặc giám sát tình trạng dinh dưỡng của một người.

 

Kết quả xét nghiệm có ý nghĩa là gì?

 

Sắt (Fe): 60- 170 µg/dl

 

TIBC: 240 – 450 µg/dl

 

Độ bảo hoà transferrin: 20-40%

 

Các kết quả xét nghiệm transferrin, TIBC, hoặc UIBC thường được đánh giá kết hợp với các xét nghiệm sắt khác. Một bản tóm tắt về những thay đổi trong các thử nghiệm sắt nhìn thấy trong các bệnh khác nhau của tình trạng sắt được thể hiện trong bảng dưới đây.

Một TIBC, UIBC, hoặc transferrin cao thường cho thấy thiếu sắt, nhưng các xét nghiệm đó cũng được tăng lên trong thai kỳ và với việc sử dụng thuốc tránh thai. Một TIBC, UIBC, hoặc transferrin thấp có thể xảy ra nếu bạn có bệnh nhiễm sắc tố sắt mô, một số loại thiếu máu, trong đó sắt tích tụ, suy dinh dưỡng, viêm, bệnh gan, hoặc hội chứng thận hư, bệnh thận là nguyên nhân gây mất protein trong nước tiểu.

Transferrin bão hòa giảm khi thiếu sắt và tăng lên khi lượng sắt dư thừa như trong trong trường hợp quá tải sắt hoặc ngộ độc sắt.

Những người mắc bệnh huyết tán có thể làm tăng nồng độ sắt trong máu của họ bởi vì hemoglobin được phóng thích từ các tế bào máu đỏ trong quá trình tán huyết.

Truyền máu gần đây có thể ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm. Truyền nhiều máu đôi khi có thể dẫn đến tình trạng quá tải sắt.

---

 Xét nghiệm Sắt huyết thanh

Các thử nghiệm sắt huyết thanh (Serum Iron/ Serum Fe) đo lượng sắt trong phần chất lỏng của máu. Sắt là một loại khoáng chất thiết yếu được hấp thụ từ thức ăn và vận chuyển khắp cơ thể bởi transferrin, một loại protein được sản xuất bởi gan. Sắt cần thiết cho việc sản xuất các tế bào máu màu đỏ (hồng cầu) bình thường. Sắt là một phần quan trọng của hemoglobin, protein trong hồng cầu, cho phép chúng vận chuyển oxy đi khắp cơ thể. Sắt cũng được sử dụng trong sản xuất một số protein, bao gồm myoglobin và một số enzym.

 

Thông thường, khoảng 70% lượng sắt hấp thụ được kết hợp với các hemoglobin trong hồng cầu. Hầu hết các phần còn lại được lưu trữ trong các mô như ferritin hoặc hemosiderin. Nếu sắt không được cung cấp đủ trong chế độ ăn uống, dẫn đến sắt trong máu có thể giảm, mà sau đó có thể làm cạn kiệt lượng sắt được lưu trữ trong cơ thể. Theo thời gian, nồng độ sắt trong máu thấp và giảm dự trữ sắt có thể dẫn đến thiếu máu thiếu sắt. Mặt khác, sự hấp thụ quá nhiều sắt có thể dẫn đến tích lũy tăng dần và gây thiệt hại cho các cơ quan như tim, gan và tuyến tụy.

 

Các thử nghiệm sắt huyết thanh đo lượng sắt vận chuyển trong cơ thể – đó là sắt kết hợp với transferrin. Số lượng sắt hiện diện trong máu sẽ khác nhau trong suốt cả ngày và từ ngày này sang ngày khác. Vì lý do này, sắt huyết thanh là gần như luôn luôn được đo cùng với các xét nghiệm sắt khác, chẳng hạn như khả năng gắn sắt tối ưu (TIBC), từ đó độ bão hòa transferrin có thể được tính toán. Transferrin bão hòa phản ánh số lượng sắt được vận chuyển trong máu. Việc sử dụng một số các thử nghiệm sắt cung cấp một cách đo lường sự thiếu sắt và quá tải sắt đáng tin cậy hơn chỉ đo sắt huyết thanh.

 

Xét nghiệm được sử dụng như thế nào?

 

Sắt huyết thanh và khả năng gắn sắt tối ưu (TIBC), hoặc đôi khi UIBC (khả năng gắn sắt không bão hòa) hoặc xét nghiệm transferrin, được sắp xếp với nhau, và tính toán độ bão hòa transferrin (sắt huyết thanh / Transferin) để xác định bao nhiêu sắt đang được lưu hành trong máu. Một thử nghiệm ferritin cũng có thể được chỉ định để đánh giá dự trữ sắt hiện tại của một người.

 

Các xét nghiệm này được sử dụng cùng nhau để phát hiện và giúp chẩn đoán thiếu sắt hoặc quá tải sắt. Ở những người bị thiếu máu, các xét nghiệm này có thể giúp xác định tình trạng này là do thiếu sắt hoặc các nguyên nhân khác, chẳng hạn như bệnh mãn tính. Xét nghiệm sắt cũng chỉ định nếu nghi ngờ một người có ngộ độc sắt và sàng lọc bệnh di truyền nhiễm sắc tố sắt mô, một bệnh di truyền liên quan đến dự trữ sắt quá nhiều.

 

Giá trị tham khảo bình thường:

 

Sắt (Fe): 60- 170 mcg/dl

TIBC: 240 – 450 µg/dl

Độ bão hoà transferrin: 20-50%

Mức độ sắt huyết thanh thường được thẩm định kết hợp với các xét nghiệm sắt khác. Một bản tóm tắt về những thay đổi trong các thử nghiệm sắt nhìn thấy trong các bệnh khác nhau của tình trạng sắt được thể hiện trong bảng dưới đây.

Một mức độ sắt thấp với một transferrin hoặc TIBC cao, thường là do thiếu sắt. Trong các căn bệnh mãn tính, cả sắt và transferrin hoặc TIBC thường thấp. Thiếu sắt thường là do chảy máu lâu dài hoặc nặng. Tuy nhiên, nó cũng có thể là do nhu cầu sắt tăng (trong thai kỳ), tăng trưởng nhanh chóng (ở trẻ em), cung cấp thiếu như ăn uống kém, và các vấn đề về kém hấp thụ (dạ dày hoặc bệnh đường ruột).

 

Mức độ cao của sắt huyết thanh có thể xảy ra như là kết quả của truyền nhiều máu, tiêm sắt vào cơ bắp, dẫn đến ngộ độc, bệnh gan hoặc bệnh thận. Nó cũng có thể là do bệnh di truyền, bệnh nhiễm sắc tố sắt mô.

---

Xét nghiệm Ferritin

Xét nghiệm này đo lượng ferritin trong máu. Ferritin là một protein chứa sắt là dạng sắt chủ yếu được lưu trữ bên trong các tế bào. Lượng nhỏ ferritin được lưu hành trong máu phản ánh số lượng sắt tổng số được lưu trữ trong cơ thể.

 

Ở những người khỏe mạnh, khoảng 70% lượng sắt hấp thụ bởi cơ thể được gắn kết vào hemoglobin của các tế bào máu đỏ; 30% còn lại, hầu hết được lưu giữ dưới dạng ferritin hoặc hemosiderin, là một phức hợp của sắt với protein, và các chất khác. Ferritin và hemosiderin không chỉ tích tụ chủ yếu ở gan mà còn có trong tủy xương, lá lách, và cơ xương.

 

Khi lượng sắt không đủ để đáp ứng nhu cầu của cơ thể, các kho sắt bị cạn kiệt và nồng độ ferritin giảm. Điều này có thể xảy ra do cung cấp không đủ lượng sắt, hấp thu không đầy đủ, nhu cầu sắt tăng chẳng hạn như trong quá trình mang thai, hoặc nguyên nhân gây mất máu mãn tính. Sự suy giảm đáng kể của các kho dự trữ sắt có thể xảy ra trước khi có bất kỳ dấu hiệu thiếu sắt phát triển.

 

Sắt lưu trữ và mức độ ferritin tăng khi chất sắt được hấp thụ nhiều hơn so với nhu cầu cơ thể. Hấp thu sắt dư thừa mãn tính sẽ dẫn đến sự tích tụ của các hợp chất sắt trong các mô và cơ quan và cuối cùng có thể gây ra rối loạn chức năng và tổn thương các mô, cơ quan. Điều này xảy ra trong bệnh nhiễm sắc tố sắt mô, một căn bệnh di truyền, trong đó cơ thể hấp thụ quá nhiều sắt, ngay cả trong một chế độ ăn uống bình thường.

 

Giá trị tham khảo bình thường:

 

Nam: 30 – 400 ng/mL

Nữ  : 15 – 150 ng/mL

Chỉ định

 

Tình trạng thiếu máu thiếu sắt: Các thử nghiệm ferritin có thể được chỉ định cùng với các xét nghiệm sắt khác, khi kết quả CBC bất thường cho thấy rằng một người có hemoglobin và hematocrit thấp và hồng cầu nhỏ và nhạt màu hơn bình thường (microcytic và hypochromic), cho thấy thiếu máu thiếu sắt thậm chí mặc dù các triệu chứng lâm sàng chưa xuất hiện.

 

Tình trạng thừa sắt. Các triệu chứng của tình trạng quá tải sắt sẽ khác nhau từ người này sang người khác và có xu hướng xấu đi theo thời gian. Các triệu chứng là do sắt tích tụ trong máu và các mô. Các triệu chứng có thể bao gồm: đau khớp, mệt mỏi, đau bụng.

Để xác nhận sự hiện diện của quá tải sắt, xét nghiệm về sắt khác (sắt, TIBC) và thử nghiệm di truyền đối với bệnh nhiễm sắc tố sắt mô di truyền có thể được cho là tốt.

Ý nghĩa

 

Mức độ ferritin thường được thẩm định kết hợp với các xét nghiệm sắt khác. Một bảng tóm tắt về những thay đổi trong các thử nghiệm sắt nhìn thấy trong các bệnh khác nhau của tình trạng sắt được thể hiện trong bảng dưới đây.

Ferritin thấp ở những người có tình trạng thiếu sắt và tăng cao ở những người có bệnh nhiễm sắc tố sắt mô và các rối loạn khác dư thừa dự trữ sắt và những người đã có truyền nhiều máu.

 

Ferritin là một chất phản ứng giai đoạn cấp tính và do đó có thể được tăng lên trong những người bị viêm, bệnh gan, nhiễm trùng mãn tính, rối loạn tự miễn dịch, và một số loại ung thư. Ferritin không thường được sử dụng để phát hiện hay theo dõi các bệnh trên.

Danh mục: Tài liệu

Luyện thi nội trú
Khóa học mới
Messenger
Chat ngay
Chat hỗ trợ
Chat ngay