NANG GIÁP MÓNG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ

Đăng vào ngày 2024-03-12 06:44:48 mục Tin tức 5500 lượt xem

Đường dẫn tài liệu:

Ths BSNT Nguyễn Huy Thông

Tổng quan

Nang giáp móng (thyroglossal duct cysts- TGDC) là một trong những tổn thương bẩm sinh vùng cổ, chiếm khoảng 2- 4% tất cả các khối u vùng cổ và khoảng hơn 7% dân số.

Khoảng 2/3 trường hợp thường được chẩn đoán trong 30 năm đầu tiên với hơn một nửa được xác định trước 10 tuổi.

Nang có thể lớn dần hoặc không thay đổi kích thước cho đến khi phát hiện ra. Bệnh thường được chẩn đoán dựa vào thăm khám cẩn thận vùng cổ kết hợp với các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác nhau. Mặc dù cộng hưởng từ, cắt lớp vi tính cho hình ảnh chính xác và toàn diện, song siêu âm với đầu dò có độ phân giải cao vẫn là lựa chọn lý tưởng ban đầu vì đơn giản, rẻ tiền, cung cấp cho bác sỹ phẫu thuật những thông tin cần thiết và quan trọng.

Nguyên nhân

Ống giáp lưỡi kết nối tuyến giáp với lưỡi ở giữa tuần thứ 4 đến tuần thứ 7 thai kỳ. Ống này đi qua phần cơ của lưỡi rồi ra trước xương móng và thanh quản, tiếp tục phát triển tuần thứ 10. Người ta cho rằng ống nang giáp lưỡi là hình ảnh một đoạn của ống không thoái triển và biệt hóa thành u nang biểu mô.

 

Phân loại:

dựa theo vị trí

- Nang dưới xương móng: khoảng 26 – 65% nang giáp móng. Hầu hết thấy ở vị trí cạnh giữa.

- Nang trên xương móng: ít hơn khoảng 20 – 25% nang giáp móng, tìm thấy ở đường giữa.

- Nang cạnh xương móng: khoảng 15%, tìm thấy gần xương móng.

- Nang trong lưỡi: Khoảng 2%.

- Nang trên xương ức: ít hơn 10% các trường hợp này.

- Nang trong thanh quản: rất hiếm và cần phân biệt với các tổn thương khác tại thanh quản.

 

Triệu chứng

 

Bệnh thường biểu hiện là một khối sưng to lên ở giữa cổ dọc theo đường đi xuống của tuyến giáp. Nang di chuyển lên trên khi người bệnh lè lưỡi do nó được gắn với ống giáp lưỡi, ống này kết nối với thanh quản bởi dải quanh khí quản.

Bạn có thể nhìn hoặc sờ thấy một khối ở cổ, thường giữa cổ và di chuyển theo cử động nuốt, khối thường không mềm.

Dấu hiệu chèn ép: khối có chèn ép vào thanh quản hoặc đường thở gây ra nói khàn, khó khăn khi nuốt hoặc thở.

Dấu hiệu nhiễm trùng: da nề đỏ, có thể có lỗ rò chảy dịch, khối vùng cổ tăng lên, sốt...

Biến chứng

 

Hai biến chứng phổ biến nhất là nhiễm trùng và ác tính. Tuy nhiên biến chứng ung thư biểu mô  xảy ra trong khoảng 1%.

Chẩn đoán hình ảnh

Siêu âm: bệnh nhân không cần chuẩn bị gì. Bác sỹ sẽ đặt đầu dò có gel lên vùng cổ bệnh nhân giúp bôi trơn và đạt được chất lượng hình ảnh tốt. Hiện nay sử dụng đầu dò phẳng tần số cao cho hình ảnh rõ nét không chỉ đánh giá được vị trí, kích thước mà còn cấu trúc hình thái của nang, độ hồi âm thành phần bên trong, vách ngăn, mạch máu.

Không có biến chứng: cấu trúc dạng nang, di động, không đau, tăng cường âm phía sau, thành mỏng và không có mạch bên trong.

Phức tạp: bên trong có các mảnh vụn, vách ngăn hoặc thành phần giàu protein.

Có nhiễm trùng: thành dày đều, tăng lưu lượng máu và thay đổi mô xung quanh.

 

Ngoài ra, chụp cộng hưởng từ hay cắt lớp vi tính cũng có nhiều giá trị trong đánh giá chính xác vị trí, bản chất và các cơ quan xung quanh.

Điều trị

Tốt nhất vẫn nên phẫu thuật cắt bỏ u nang, nhất là trong các trường hợp có biến chứng nhiễm trùng hoặc chèn ép, ảnh hưởng thẩm mỹ nhiều.

 

Danh mục: Tài liệu

Luyện thi nội trú
Khóa học mới
Messenger
Chat ngay
Chat hỗ trợ
Chat ngay