Nay vô tình đọc được một bài báo trên NEJM về lượng muối nhập vào cơ thể và huyết áp. Vô tình nhớ lại hồi Y2 mình có dịp đọc Guyton và ấn tượng về bài viết sự thay đổi chế độ ăn kali, natri giữa xa xưa và hiện tại ảnh hưởng đến tăng tỉ lệ mắc tăng huyết áp.
1. LỢI ÍCH CỦA CHẾ ĐỘ ĂN NHIỀU KALI VÀ ÍT NATRI
Trong phần lớn lịch sử loài người, chế độ ăn uống điển hình là một chế độ ăn có hàm lượng natri thấp và hàm lượng kali cao. Rõ ràng là chế độ ăn này khác biệt so với chế độ ăn hiện đại.
Ở các nhóm dân cư biệt lập với xã hội công nghiệp hóa, chẳng hạn như bộ lạc Yanomamo bộ lạc sống ở vùng Amazon, miền Bắc Brazil, lượng natri nhập vào có thể thấp từ 10 - 20 mmol/ ngày và lượng kali nhập vào có thể lên tới 200 mmol/ ngày. Lượng kali nhập vào cơ thể cao là do họ có một chế độ ăn uống có nhiều trái cây và rau và không có thực phẩm chế biến sẵn. Dân số sử dụng chế độ ăn này thường không bị tăng huyết áp và các bệnh tim mạch liên quan đến tuổi tác.
Trải qua quá trình công nghiệp hóa và mức tiêu thụ tăng lên của
thực phẩm chế biến sẵn (thường có hàm lượng natri cao và kali thấp) đã làm thay đổi chế độ ăn của loài người. Người "hiện đại" nhập vào nhiều natri hơn nhưng ít kali hơn. Họ tiêu thụ lượng kali trung bình chỉ 30 - 70 mmol/ ngày, trong khi lượng natri lên đến 140-180 mmol /ngày.
2. CÁI GIÁ PHẢI TRẢ DO ĂN ÍT KALI VÀ ĂN NHIỀU NATRI
Chế độ ăn ít kali làm tăng nhạy cảm với muối bằng cách gây phosphoryl hóa và hoạt hóa phosphoryl hóa đồng vận chuyển NaCl nhạy cảm với thiazide (NaCl cotransporter, NCC) ở ống lượn xa. Sự hoạt hóa này thông qua một dòng thác tín hiệu liên quan đến kênh kali (Kir4.1/5.1) hoạt động như một cảm biến kali và WNK kinase (with no lysine [K]) và STE20/SPS1-related proline/alanine–rich kinase (SPAK).
Nồng độ kali thấp (1) sẽ kích hoạt (bật công tắc) hệ thống bằng cách gây ưu cực màng (2a), do đó đẩy ion Cl- ra khỏi tế bào qua kênh ClC-Kb (2b) và ra khỏi vị trí liên kết ức chế ở WNK. Một khi được tự do, các WNK kinase hoạt hóa phosphoryl hóa SPAK, do đó sẽ hoạt hóa NCC. Hệ thống được kích hoạt bởi nồng độ kali máu thấp, ngay cả khi lượng natri máu cao, dẫn đến tăng giữ muối (3) và tăng nhạy cảm với muối. Giữ muối góp phần làm tăng huyết áp (4).
Vì công tắc này ưu tiên giữ kali hơn thải natri nên nó không phù hợp với chế độ ăn ở hiện đại với đặc trưng là lượng natri cao và kali thấp trong chế độ ăn hàng ngày. Do đó người "hiện đại"có công tắc này được bật liên tục nhằm bảo tồn kali, với cái giá phải trả là giảm thải natri và làm tăng natri máu, thúc đẩy sự nhạy cảm với muối.
3. TIỀM NĂNG CỦA VIỆC BỔ SUNG KALI TRONG CHẾ ĐỘ ĂN VÀ ĐIỀU HÒA HUYẾT ÁP
Các nghiên cứu thực nghiệm và lâm sàng đã chỉ ra rằng kết hợp giữa chế độ ăn nhiều natri và ít kali sẽ làm tăng nguy cơ tăng huyết áp và các bệnh tim mạch và thận liên quan. Bên cạnh đó, một chế độ ăn giàu kali sẽ có xu hướng bảo vệ chống lại các ảnh hưởng bất lợi của chế độ ăn nhiều natri, làm giảm huyết áp và nguy cơ đột quỵ, bệnh mạch vành và bệnh thận. Lợi ích của việc tăng lượng kali nhập vào rõ ràng hơn khi kết hợp với chế độ ăn ít natri. Thử nghiệm the DASH-Sodium cho thấy ngoài việc giảm lượng muối ăn vào, việc thay đổi tổng thể chế độ ăn uống là rất quan trọng để giảm huyết áp. Trong số nhiều yếu tố làm giảm huyết áp và cải thiện sức khỏe tim mạch, hàm lượng kali và chất xơ cao trong chế độ ăn gần đây đã thu hút được sự chú ý đáng kể.
Các hướng dẫn về chế độ ăn được xuất bản bởi các tổ chức khác nhau đã khuyến nghị giảm lượng natri clorua trong chế độ ăn xuống khoảng 65 - 100 mmol/ ngày (tương ứng với 1,5–2,3 g natri / ngày natri hay 3,8–5,8 g natri clorua/ ngày) đồng thời tăng lượng kali lên 120 mmol / ngày (4,7 g/ ngày) đối với người lớn khỏe mạnh.
Nguồn:
1. https://www.nejm.org/doi/full/10.1056/NEJMra2030212?fbclid=IwAR2uIYYwaZHeQbLLTz9wajv6Hm5Br3eiVJyPLUmm41xQDcBfiWHqXd4NMLA
2. https://physoc.onlinelibrary.wiley.com/doi/full/10.1113/JP276844
3. Guyton and Hall. Textbook of Medical Physiology, 14th Edition.