TĂNG BẠCH CẦU CÔNG THỨC MÁU Ý NGHĨA

Đăng vào ngày 2025-09-06 18:39:16 mục Tin tức 5500 lượt xem

Đường dẫn tài liệu:

Bác Sĩ Huyết Học

TĂNG BẠCH CẦU MÁU (Leukocytosis)

Khi đọc kết quả một xét nghiệm công thức máu (tổng phân tích tế bào máu ngoại vi) ta thường thấy có tình trạng tăng Bạch cầu máu. Nguyên nhân đầu tiên là ta thường nghĩ ngay đến nguyên nhân có nhiễm khuẩn. Hoặc khi hỏi học viên và sinh viên Y khoa thì nguyên nhân đầu tiên được nghĩ đến là do nhiễm khuẩn, sau đó là … ngắc ngứ. Nhưng liệu tăng Bạch cầu máu chỉ gặp trong nhiễm trùng hay không? Thực ra tình trạng tăng bạch cầu trong máu chắc chắn sẽ khiến không chỉ sinh viên và học viên Y khoa mà ngay cả các bác sĩ sẽ bối rối trong thực hành lâm sàng khi tiếp cận chẩn đoán nguyên nhân của tình trạng này. Thậm chí là tình trạng tăng một số thành phần bạch cầu máu có thể dễ bị bỏ qua khi phiên giải kết quả công thức máu.

Tăng bạch cầu là sự gia tăng số lượng bạch cầu (WBC) theo độ tuổi. Ở người trưởng thành, số lượng WBC trong khoảng 6.000-10.000 tế bào/uL (10 G/L). Thông thường, số lượng WBC vượt quá 11.000 tế bào/µL ở người lớn được coi là tăng bạch cầu. Tuy nhiên, giá trị tham chiếu còn thay đổi tùy theo độ tuổi và liên quan thai kỳ. 

Tăng bạch cầu là một phát hiện phổ biến với nhiều chẩn đoán phân biệt và thường được phân loại dựa trên loại (thành phần) WBC góp phần gây tăng bạch cầu. Sự gia tăng số lượng tế bào lympho, bạch cầu trung tính, bạch cầu ái toan, bạch cầu ái kiềm, bạch cầu đơn nhân hoặc tế bào chưa trưởng thành (nguyên bào) đều có thể góp phần gây tăng bạch cầu. Nhiễm trùng, viêm, phản ứng dị ứng, bệnh ác tính và rối loạn di truyền đều là những nguyên nhân phổ biến gây tăng bạch cầu. Việc xác định những thay đổi trong sự phân bố của WBC có thể giúp xác định nguyên nhân cơ bản. Ví dụ, tăng bạch cầu ái toan có thể chỉ ra các bệnh dị ứng hoặc ký sinh trùng, trong khi tăng bạch cầu lympho có thể xuất hiện ở những bệnh nhân mắc hội chứng virus, bệnh tự miễn và cường giáp.

Sau đâu là các nguyên nhân gây tăng Bạch cầu máu.

1. Tăng bạch cầu trung tính (Neutrophilia):
Bạch cầu trung tính chiếm khoảng 40% - 60% tổng số lượng bạch cầu. Tăng bạch cầu trung tính, tình trạng số lượng bạch cầu trung tính tăng ít nhất 2 độ lệch chuẩn so với giá trị trung bình hoặc >7.700 bạch cầu trung tính/µL ở người lớn, là nguyên nhân phổ biến nhất gây tăng bạch cầu. Do sự biến thiên rộng rãi của các giá trị bình thường, khoảng 2,5% dân số bình thường bị tăng bạch cầu trung tính. 
- Nhiễm trùng, thường là do vi khuẩn.
- Nhiễm virus herpes simplex (HSV), virus varicella (VZV) và virus Epstein-Bar (EBV): Gây tăng bạch cầu trung tính ở trẻ em, đặc biệt là trẻ dưới 5 tuổi.
- Viêm cấp tính và mạn tính: Thấp khớp, bệnh Kawasaki, bệnh Still khởi phát ở người lớn, bệnh viêm ruột (IBD) và viêm gan mạn tính. 
- Bệnh bạch cầu (Leukaemia) và các bệnh ác tính không liên quan đến huyết học.
- Chấn thương, phẫu thuật, bỏng.
- Phản ứng sau chảy máu cấp tính.
- Một số loại thuốc: Glucocorticoid, catecholamine và lithium.
- Nguyên nhân khác: Hội chứng không có lách (Asplenia syndrome), hút thuốc lá, căng thẳng (stress), mang thai, béo phì, các rối loạn tuyến giáp, hội chứng Down.

2. Phản ứng dạng bạch cầu (Leukemoid Reaction):
Phản ứng dạng bạch cầu là sự gia tăng tạm thời số lượng bạch cầu, biểu hiện bằng số lượng bạch cầu trung tính >50.000 tế bào/µL mà không có khối u tăng sinh tủy.
- Nguyên nhân: Một số loại thuốc, cắt lách, các bệnh ác tính không liên quan đến huyết học, và nhiễm trùng do Costridioides difficile, lao, ho gà và ấu trùng di chuyển nội tạng. 
- Phản ứng dạng bạch cầu có thể bị nhầm lẫn với bệnh bạch cầu, nhưng việc khai thác tiền sử cẩn thận, khám lâm sàng và các cận lâm sàng bổ sung có thể xác nhận chẩn đoán. Có thể cần xét nghiệm huyết đồ và chụp X-quang để xác định nguyên nhân thực sự của các kết quả xét nghiệm phản ứng này. Bệnh bạch cầu, được định nghĩa là sự gia tăng tế bào non, tế bào tiền thân của bạch cầu và bạch cầu chưa trưởng thành thay vì bạch cầu trung tính trưởng thành trong phản ứng dạng bạch cầu. Phản ứng dạng bạch cầu cải thiện sau khi điều trị nguyên nhân cơ bản của tăng bạch cầu trung tính, trong khi bệnh bạch cầu vẫn tiếp tục biểu hiện bạch cầu tăng cao cho đến khi có điều trị phù hợp.

3. Tăng tế bào non tiền thân của hồng cầu và bạch cầu (Leukoerythroblastosis)
Leukoerythroblastosis thường gợi ý bất thường ở tủy xương, trong đó khoang tủy bình thường bị thâm nhiễm và thay thế bằng các tế bào không tạo máu hoặc bất thường. Các nguyên nhân tiềm ẩn khác là giải phóng cytokine, chẳng hạn như hội chứng hô hấp cấp tính nặng do SARS-CoV-2, tủy xương bị ức chế và nhiễm virus. Trong hầu hết các trường hợp, tình trạng này báo hiệu tiên lượng xấu.

4. Tăng lympho bào (Lymphocytosis):
Trung bình, tế bào lympho chiếm khoảng 20% đến 40% tổng số lượng bạch cầu. Sự gia tăng tế bào lympho ở trẻ em thường lành tính và liên quan đến sự tăng trưởng và phát triển nhanh chóng của hệ miễn dịch. 
- Các phản ứng quá mẫn, bệnh bạch cầu, stress, cắt lách, cường giáp, nhược cơ, u tuyến ức và u lympho có thể gây ra tăng lympho bào. 
- Nguyên nhân nhiễm trùng thường là do virus: Nhiễm EBV, cytomegalovirus, cúm, sởi, quai bị, rubella, adenovirus và virus Coxsackie. 
- Nhiễm khuẩn: Ho gà, bệnh mèo cào. 
- Các nhiễm trùng khác: Lao, bệnh brucella, bệnh babesia và giang mai. (Babesiosis là bệnh nhiễm trùng với các loài động vật đơn bào Babesia. Nhiễm trùng có thể không có triệu chứng hoặc gây ra bệnh giống sốt rét với triệu chứng sốt và thiếu máu tan máu. Bệnh nặng nhất ở bệnh nhân cắt lách, người cao tuổi, bệnh nhân bị AIDS. Chẩn đoán bằng cách tìm Babesia trong máu ngoại vi, xét nghiệm huyết thanh học hoặc PCR. Điều trị bằng azithromycin và atovaquone hoặc với quinine kết hợp với clindamycin.)

5. Tăng bạch cầu ái toan (Eosinophilia):
Tăng bạch cầu ái toan (bạch cầu ưa acid) chiếm khoảng 1% - 4% tổng số bạch cầu người, và số lượng bạch cầu ái toan > 500 tế bào/µL được xác định là tăng bạch cầu ái toan. 
- Các bệnh dị ứng: Hen, viêm mũi dị ứng và viêm da dị ứng là những nguyên nhân phổ biến và thường gây tăng bạch cầu ái toan nhẹ. 
- Tăng bạch cầu ái toan nặng (≥20.000 tế bào/µL): Cần tìm u tân sinh dòng tủy. 
- Nhiễm trùng: Giun sán, nấm, đơn bào ký sinh, một số vi khuẩn, HIV, virus lympho T ở người týp 1 (human T-cell lymphotropic virus type 1) và bệnh ghẻ.
- Phản ứng với thuốc, đặc biệt là thuốc chống viêm không steroid (NSAID), allopurinol, phenytoin, penicillin, cephalosporin và sulfasalazine.

6. Tăng bạch cầu đơn nhân (Monocytosis):
Bạch cầu đơn nhân chiếm khoảng 2% - 8% số lượng bạch cầu. Tăng bạch cầu đơn nhân là số lượng bạch cầu đơn nhân >1000 tế bào/µL. Một nghiên cứu gần đây cho thấy bạch cầu đơn nhân có thể dự đoán kết quả tiên lượng trong các phòng cấp cứu.
- Nguyên nhân: Các bệnh nhiễm trùng mạn tính và các tình trạng viêm như bệnh viêm ruột, viêm nội tâm mạc, lao, sốt rét, thương hàn, giang mai, bệnh bạch cầu và u lympho.
- Nguyên nhân khác: Mang thai và cắt lách. 

7. Tăng Bạch cầu ái kiềm (Basophils)
Bạch cầu ái kiềm (ưa bazơ) chiếm 0,5% - 1% tổng số lượng bạch cầu. Bạch cầu ái kiềm là một nguyên nhân hiếm gặp gây tăng bạch cầu. 
- Nguyên nhân phổ biến: Các rối loạn tăng sinh tủy, phản ứng quá mẫn, phản ứng viêm, phù niêm và nhiễm trùng. 
- Tăng Bạch cầu ái kiềm thoáng qua là một phản ứng, đặc biệt là với nhiễm virus cấp tính.
- Tăng bạch cầu ưa kiềm dai dẳng liên tục trong hơn 8 tuần gợi ý một bệnh lý ác tính tiềm ẩn hoặc bệnh lý tăng sinh tủy.

Danh mục: Tài liệu

Messenger
Chat ngay
Chat hỗ trợ
Chat ngay